Ngành cơ khí đang có những bước phát triển mạnh mẽ, với số lượng doanh nghiệp tăng nhanh, từ năm 2010 có khoảng 10.000 doanh nghiệp, đến nay lên hơn 21.000 doanh nghiệp, chiếm khoảng 28% trong tổng số doanh nghiệp công nghiệp chế tạo.
Báo cáo về Chiến lược phát triển ngành cơ khí Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và cách mạng công nghiệp 4.0 do Bộ Công Thương công bố đã chỉ rõ 5 hạn chế lớn đang cản trở ngành cơ khí Việt Nam; trong đó, ngành cơ khí Việt Nam đang yếu thế về thị trường dù sản phẩm đa dạng. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do doanh nghiệp thiếu thông tin và năng lực cạnh tranh trong nước chưa đủ mạnh.
Ngay cả tại thị trường nội địa, doanh nghiệp cơ khí cũng khó tham gia vào dự án đầu tư lắp đặt trang thiết bị ngành thép, hóa chất, năng lượng… chủ yếu do thiếu hệ thống kiểm định chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế. Doanh nghiệp, sản phẩm cơ khí trong nước cũng chưa xây dựng được thương hiệu và được nhiều khách hàng biết đến.
Giới chuyên gia nhận định, vấn đề quan trọng đối với ngành công nghiệp hiện nay cần giải quyết đó là trình độ kỹ thuật – công nghệ của doanh nghiệp còn thấp. Ngành cơ khí trong nước có rất ít phát minh, sáng chế được đăng ký, thiết bị và trình độ công nghệ toàn ngành nhìn chung còn chậm đổi mới. Bên cạnh đó, nguyên phụ liệu cho ngành chủ yếu là sắt thép và các loại kim màu, nhưng hầu hết nguyên phụ liệu này trong nước chưa sản xuất được buộc phải nhập khẩu.
Theo Bộ Công Thương, cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu, vừa là thách thức vừa mang lại cơ hội tốt để Việt Nam có thể tận dụng, xử lý các vấn đề lớn trong phát triển kinh tế và tái cơ cấu ngành công nghiệp, đặc biệt là ngành cơ khí.
Thống kê mới nhất cho hay, ngành cơ khí đang có những bước phát triển mạnh mẽ, với số lượng doanh nghiệp tăng nhanh, từ năm 2010 có khoảng 10.000 doanh nghiệp, đến nay lên hơn 21.000 doanh nghiệp, chiếm khoảng 28% trong tổng số doanh nghiệp công nghiệp chế tạo.
Nhưng trong đó, tỷ trọng số lượng doanh nghiệp sử dụng công nghệ lạc hậu là 59,6%; công nghệ trung bình 28,6%; công nghệ trên trung bình 8,8%; còn sử dụng công nghệ cao chỉ chiếm có 2%.
Bởi vậy, để ngành cơ khí vươn lên trong chuỗi giá trị toàn cầu, tham gia vào nhiều công đoạn đem lại giá trị gia tăng cao hơn, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách để phát triển công nghiệp. Bao gồm, chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035 tại Quyết định số 879/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt, lựa chọn ưu tiên nhóm ngành cơ khí và luyện kim, đầu tư phát triển sản xuất thép chế tạo cho ngành cơ khí (thép tấm, thép hình, thép và hợp kim) và một số nhóm ngành khác.
Đến năm 2025, công nghiệp Việt Nam phát triển với cơ cấu hợp lý theo ngành và lãnh thổ, có khả năng cạnh tranh để phát triển trong hội nhập, có công nghệ hiện đại và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu ở một số chuyên ngành, lĩnh vực, có khả năng đáp ứng cơ bản yêu cầu nền kinh tế và xuất khẩu.
Ngoài ra, ngành cơ khí cũng được định hướng phát triển với đa số các chuyên ngành có công nghệ tiên tiến, chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Cụ thể, giai đoạn đến năm 2020 sản lượng xuất khẩu đạt 35% tổng sản lượng ngành cơ khí; giai đoạn đến năm 2030 đạt 40%; đến năm 2035 đạt 45%; trong đó, tập trung phát triển một số phần ngành cơ khí ô tô, máy kéo, máy nông nghiệp, thiết bị công trình, thiết bị công nghiệp… có khả năng đáp ứng cơ bản những yêu cầu của nền kinh tế và một phần xuất khẩu. Những nhân tố mới và yếu tố nền tảng cơ bản sẽ tạo nên khả năng cạnh tranh, tạo động lực đổi mới sáng tạo, chứ không chỉ dựa vào khai thác nguồn lực tự nhiên, mà dựa vào đổi mới sáng tạo.
Theo Báo Diễn đàn Doanh nghiệp